Scholar Hub/Chủ đề/#cao su hạt/
Cao su hạt là vật liệu chế biến từ cao su tự nhiên hoặc tổng hợp, nổi bật với tính đàn hồi và độ bền cao, dễ hòa trộn và ứng dụng. Sản xuất cao su hạt yêu cầu kỹ thuật chính xác, bắt đầu từ xử lý mủ cao su hoặc polyme tổng hợp, cắt nhũ hóa thành hạt, sau đó sấy và đóng gói. Cao su hạt ứng dụng trong ô tô, xây dựng và sản phẩm tiêu dùng. Ưu điểm gồm tính tái chế, linh hoạt ứng dụng; hạn chế là quá trình sản xuất có thể gây chất thải và bị ảnh hưởng bởi thời tiết. Cao su hạt góp phần phát triển ngành công nghiệp và bảo vệ môi trường.
Cao su hạt: Giới thiệu và nguồn gốc
Cao su hạt là một dạng vật liệu được chế biến từ cao su tự nhiên hoặc tổng hợp, được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực nhờ tính đàn hồi và độ bền cao. Được sản xuất dưới dạng những hạt nhỏ, cao su hạt dễ dàng hòa trộn và xử lý, giúp linh hoạt trong quá trình ứng dụng.
Quá trình sản xuất cao su hạt
Sản xuất cao su hạt bao gồm nhiều công đoạn kỹ thuật yêu cầu chất lượng và độ chính xác cao. Nguyên liệu chính là mủ cao su tự nhiên được thu hoạch từ cây cao su, hoặc cao su tổng hợp được tạo ra từ các polyme khác. Quá trình sản xuất bao gồm:
- Thu hoạch và xử lý nguyên liệu: Mủ cao su hoặc polyme tổng hợp được thu gom và xử lý sơ bộ để loại bỏ tạp chất.
- Cắt và nhũ hóa: Cao su được cắt thành những mảnh nhỏ và nhũ hóa để tạo thành dạng hạt.
- Sấy và hoàn thiện: Hạt cao su được sấy khô để đảm bảo độ ẩm thấp, sau đó được đóng gói để bảo quản và vận chuyển.
Ứng dụng của cao su hạt
Cao su hạt được ứng dụng rộng rãi nhờ vào những tính chất vượt trội như độ đàn hồi, khả năng chịu nhiệt, và kháng mài mòn. Một số ứng dụng phổ biến bao gồm:
- Ngành sản xuất ô tô: Cao su hạt được sử dụng trong sản xuất lốp xe, miếng đệm, và các linh kiện chống rung.
- Xây dựng và kiến trúc: Dùng làm vật liệu cách âm, cách nhiệt, và trong sản xuất các sản phẩm chống trơn trượt.
- Sản phẩm tiêu dùng: Được ứng dụng trong sản xuất giày dép, thảm tập thể thao, và đồ chơi trẻ em.
Lợi ích và hạn chế của cao su hạt
Cao su hạt mang lại nhiều lợi ích, bao gồm khả năng tái chế và thân thiện với môi trường, do có thể sử dụng mủ cao su tự nhiên. Tuy nhiên, một số hạn chế cần cân nhắc:
- Lợi ích: Cao su hạt nhẹ, dễ dàng vận chuyển và linh hoạt trong ứng dụng. Khả năng tái chế cao giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
- Hạn chế: Quá trình sản xuất có thể tạo ra chất thải nếu không được kiểm soát tốt. Ngoài ra, cao su tự nhiên có thể bị ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết và tác nhân hóa học.
Kết luận
Cao su hạt là một sản phẩm đa năng với nhiều ứng dụng thực tiễn trong đời sống và công nghiệp. Với những cải tiến về công nghệ và quản lý sản xuất, ngành công nghiệp cao su hạt hứa hẹn sẽ phát triển mạnh mẽ, đóng góp đáng kể vào lĩnh vực sản xuất và bảo vệ môi trường.
Điốt phát sáng ánh sáng xanh lớp cường độ sáng cao InGaN/AlGaN kiểu dị thể kép Dịch bởi AI Applied Physics Letters - Tập 64 Số 13 - Trang 1687-1689 - 1994
Điốt phát sáng (LEDs) ánh sáng xanh kiểu dị thể kép InGaN/AlGaN lớp cường độ sáng cao đạt được cường độ sáng trên 1 cd đã được chế tạo. Một lớp InGaN pha Zn được sử dụng làm lớp hoạt động cho các điốt này. Công suất đầu ra tiêu biểu đạt 1500 μW và hiệu suất lượng tử bên ngoài cao đến 2,7% ở dòng điện tiếp phía trước 20 mA tại nhiệt độ phòng. Bước sóng đỉnh và chiều rộng phổ tại điểm nửa cường độ cực đại của điện phát quang lần lượt là 450 và 70 nm. Giá trị cường độ sáng này là cao nhất từng được báo cáo đối với điốt xanh.
#Điốt phát sáng #dị thể kép InGaN/AlGaN #cường độ sáng cao #ánh sáng xanh #hiệu suất lượng tử
Tính Dẫn Điện Cao và Tính Trong Suốt Của Màng PEDOT:PSS Có Chất Phụ Gia Fluorosurfactant Dùng Cho Điện Cực Trong Suốt, Dẻo Dai Dịch bởi AI Advanced Functional Materials - Tập 22 Số 2 - Trang 421-428 - 2012
Tóm tắtMàng poly-(3,4-ethylenedioxythiophene):poly(styrenesulfonic acid) (PEDOT:PSS) dẫn điện cao và trong suốt, được bổ sung chất phụ gia fluorosurfactant, đã được chế tạo cho điện cực trong suốt và co dãn. Màng PEDOT:PSS xử lý bằng fluorosurfactant thể hiện sự cải thiện 35% về điện trở tấm (Rs) so với màng không xử lý. Ngoài ra, chất fluorosurfactant khiến dung dịch PEDOT:PSS có thể được lắng đọng trên các bề mặt kỵ nước, bao gồm màng PEDOT:PSS đã được lắng đọng trước và nung (cho phép lắng đọng màng đa lớp, có độ dẫn điện cao và dày) và cơ chất poly(dimethylsiloxane) (PDMS) co dãn (cho phép tạo ra các thiết bị điện tử co dãn). Màng PEDOT:PSS bốn lớp có Rs là 46 Ω trên mỗi ô vuông với độ truyền qua là 82% (tại 550 nm). Các màng này, khi lắng đọng trên cơ chất PDMS căng trước và đã được làm gấp nếp, cho thấy có thể co dãn đảo ngược mà không thay đổi Rs, trong suốt hơn 5000 chu kỳ co dãn từ 0 đến 10%. Sử dụng màng PEDOT:PSS đa lớp làm anot, các thiết bị quang điện hữu cơ không sử dụng indium tin oxide (ITO) đã được chế tạo và cho thấy hiệu suất chuyển đổi năng lượng ngang bằng với những thiết bị dùng ITO làm anot. Những kết quả này cho thấy rằng màng PEDOT:PSS dẫn điện cao không chỉ có thể được sử dụng làm điện cực trong suốt trong các thiết bị mới (nơi mà không thể sử dụng ITO), chẳng hạn như OPVs co dãn, mà còn có tiềm năng thay thế ITO trong các thiết bị truyền thống.
Dự đoán suy giảm nhận thức trong người cao tuổi bình thường với phương pháp chụp cắt lớp phát xạ positron 2-[18F]fluoro-2-deoxy-D-glucose (FDG/PET) Dịch bởi AI Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 98 Số 19 - Trang 10966-10971 - 2001
Các nghiên cứu về bệnh lý thần kinh cho thấy bệnh nhân suy giảm nhận thức nhẹ (MCI) và bệnh Alzheimer thường có các tổn thương ở vùng vỏ nào entorhinal (EC), hồi hải mã (Hip) và vỏ não thái dương. Các quan sát liên quan với hình ảnh
in vivo
đã cho phép dự đoán các dấu hiệu mất trí nhớ từ MCI. Mặc dù những cá nhân có khả năng nhận thức bình thường có thể có tổn thương EC focal, anatomie này chưa được nghiên cứu như là một yếu tố dự đoán suy giảm nhận thức và thay đổi ở não. Mục tiêu của nghiên cứu FDG/PET hướng dẫn bằng MRI này là kiểm tra giả thuyết rằng trong những người cao tuổi bình thường, sự giảm chuyển hóa EC dự đoán suy giảm nhận thức và sự tham gia của Hip và vỏ não. Trong nghiên cứu dài hạn kéo dài 3 năm trên 48 người cao tuổi bình thường khỏe mạnh, 12 cá nhân (tuổi trung bình 72) đã biểu hiện suy giảm nhận thức (11 trở thành MCI và 1 thành bệnh Alzheimer). Các nhóm đối chứng không bị suy giảm được so sánh với nhau về kiểu gen apolipoprotein E, tuổi, giáo dục và giới tính. Tại thời điểm cơ sở, các giảm chuyển hóa ở EC đã chính xác dự đoán sự chuyển từ bình thường sang MCI. Trong số những người bị suy giảm, EC cơ sở đã dự đoán giảm chuyển hóa bộ nhớ và vỏ não thái dương theo thời gian. Tại thời điểm theo dõi, những người bị suy giảm đã biểu hiện suy giảm trí nhớ và giảm chuyển hóa ở vỏ não thùy thái dương và Hip. Trong số những đối tượng này, những người mang gene apolipoprotein E E4 thể hiện sự giảm chuyển hóa mạnh mẽ ở vỏ não thái dương theo thời gian. Tóm lại, các dữ liệu này chỉ ra rằng giai đoạn EC của sự tham gia não có thể được phát hiện ở người cao tuổi bình thường và dự đoán suy giảm nhận thức và chuyển hóa não trong tương lai. Sự giảm chuyển hóa tiến triển liên quan đến E4 có thể là nguyên nhân của sự tăng nhạy cảm với chứng sa sút trí tuệ. Cần các nghiên cứu tiếp theo để ước tính rủi ro cá nhân và xác định cơ sở sinh lý của những thay đổi METglu phát hiện trong khi nhận thức vẫn bình thường.
#suy giảm nhận thức #Alzheimer #MCI #vùng vỏ nào entorhinal #hồi hải mã #vỏ não thái dương #FDG/PET #người cao tuổi #chuyển hóa não #gene apolipoprotein E
Hạt nhân kim loại kích thước nanomet trên nền graphene được bao bọc bởi silica trung bình rỗng: Chất xúc tác bền vững cho các phản ứng ôxi hóa và khử Dịch bởi AI Angewandte Chemie - International Edition - Tập 53 Số 1 - Trang 250-254 - 2014
Tóm tắtNhững hạt nhân kim loại kích thước nanomet siêu mịn được hỗ trợ trên tấm graphene và được bao bọc bởi lớp mỏng SiO2 trung bình rỗng đã được chế tạo và sử dụng làm chất xúc tác bền bỉ với hoạt tính xúc tác cao và khả năng ổn định ở nhiệt độ cao tuyệt vời. Các chất xúc tác có thể tái chế và tái sử dụng trong nhiều phản ứng ở pha khí và dung dịch, và khả năng hoạt tính xúc tác cao của chúng có thể được khôi phục hoàn toàn bằng cách tái sinh ở nhiệt độ cao, nếu chúng bị bất hoạt do ngộ độc nguyên liệu. Ngoài diện tích bề mặt lớn do chất nền graphene cung cấp, hiệu suất xúc tác được cải thiện còn được cho là nhờ lớp SiO2 trung bình rỗng, không chỉ ổn định các hạt kim loại kích thước nanomet siêu mịn mà còn ngăn chặn sự kết tụ của các tấm graphene. Chiến lược tổng hợp này có thể mở rộng sang các kim loại khác như Pd và Ru để chế tạo chất xúc tác bền vững cho nhiều phản ứng khác nhau.
#graphene #hạt nhân kim loại nanomet #silica trung bình rỗng #chất xúc tác #ổn định nhiệt độ cao #phản ứng ôxi hóa #phản ứng khử
Hiệu suất nắm tay liên quan đến cảm nhận mệt mỏi, chức năng thể chất và IL-6 trong máu ở người cao tuổi không có viêm Dịch bởi AI BMC Geriatrics - Tập 7 Số 1 - 2007
Tóm tắt
Nền tảng
Sức mạnh nắm tay thấp được công nhận là một trong những đặc điểm của tình trạng suy nhược, cũng như tình trạng viêm toàn thân và cảm giác mệt mỏi. Trái ngược với sức mạnh nắm tối đa, khả năng chống mệt mỏi của các cơ không thường được đưa vào đánh giá lâm sàng ở bệnh nhân cao tuổi. Mục tiêu của nghiên cứu này là điều tra xem sức mạnh nắm tay và khả năng chống mệt mỏi của các cơ nắm có liên quan đến cảm giác mệt mỏi tự cảm nhận, chức năng thể chất và IL-6 lưu hành ở những người cao tuổi sống độc lập.
#sức mạnh nắm tay #mệt mỏi #IL-6 #chức năng thể chất #người cao tuổi
Đánh giá định tính về các sáng kiến học tập cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức về môi trường và thay đổi hành vi: Áp dụng khuôn khổ Giáo dục vì sự phát triển bền vững (ESD) của UNESCO Dịch bởi AI International Journal of Environmental Research and Public Health - Tập 19 Số 6 - Trang 3528
Nghiên cứu này sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính và khai thác văn bản để làm sáng tỏ tiềm năng và triển vọng của các cơ hội học tập dựa trên cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức về môi trường và mang lại sự thay đổi hành vi lành mạnh cho sinh viên đại học và cư dân địa phương. Cụ thể, chúng tôi tập trung vào tầm quan trọng của học tập dựa trên cộng đồng trong việc nâng cao nhận thức về môi trường và truyền cảm hứng hành động nhằm hỗ trợ cuộc sống lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên. Ba nhóm đã được tam giác hóa thông qua khảo sát có cấu trúc bán phần để mô hình hóa các cách mà giáo dục vì sự phát triển bền vững (ESD) có thể góp phần vào việc thúc đẩy giáo dục môi trường cho các cộng đồng địa phương. Để thu thập dữ liệu sâu, các tác giả đã có mặt trực tiếp tại các địa điểm nghiên cứu và thu thập dữ liệu văn bản dựa trên các bảng câu hỏi có cấu trúc bán phần trong một khuôn khổ quan sát tham gia, nơi họ có một trải nghiệm chung để hiểu các quan sát. Phân tích được thực hiện bằng cách sử dụng NVivo12. Hai sáng kiến học tập cộng đồng được nghiên cứu là ở Okayama và Tokyo, những khu vực chính về chính sách ESD. Cả hai nghiên cứu trường hợp đều là các dự án do sinh viên đại học lãnh đạo, nhằm nâng cao nhận thức về môi trường trong các cộng đồng địa phương thông qua sự thay đổi hành vi có ý thức về môi trường và tạo ra một nền tảng để sống lành mạnh. Nghiên cứu này tập trung vào "thế hệ trẻ" và "cộng đồng" trong số năm lĩnh vực ưu tiên được đề xuất trong báo cáo ESD năm 2015 và thảo luận về tiềm năng và triển vọng cho các sáng kiến học tập cộng đồng và việc kích hoạt hiệu ứng thúc đẩy trong việc thay đổi hành vi có ý thức về môi trường và hành vi sức khỏe. Kết quả phân tích văn bản với các phương pháp tam giác cho thấy, trong khi các nhà hoạch định chính sách và giáo viên, nhà lãnh đạo thúc đẩy sáng kiến thừa nhận tầm quan trọng của ESD một cách toàn diện, nhưng sự chú ý của họ nhiều hơn tập trung vào thiết kế các dự án và chương trình cụ thể. Ngược lại, sinh viên đại học tham gia các hoạt động ESD đã đánh giá cơ sở giáo dục xã hội (các trung tâm cộng đồng địa phương, các trung tâm học tập cộng đồng) là "sống động" và "khuyến khích". Đã phát hiện thấy rằng có kỳ vọng cao cho "phòng khách công cộng", điều này rất quan trọng như một cơ sở cho việc học để thúc đẩy các cộng đồng lành mạnh và bền vững và sự thay đổi hành vi có ý thức về môi trường.
Nghiên cứu chế tạo bê tông chất lượng siêu cao sử dụng silica fume và xỉ lò cao hạt hóa nghiền mịn ở việt namTạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (TCKHCNXD) - ĐHXDHN - - 2013
Bê tông chất lượng siêu cao (BTCLSC) được coi là một trong những sản phẩm mang tính bước ngoặt trong công nghệ bê tông với các đặc tính rất tốt như độ chảy cao, cường độ nén lớn hơn 150 MPa và độ bền tuyệt vời. Để chế tạo bê tông này thông thường phải sử dụng một lượng lớn xi măng, khoảng 900-1000 kg/m3. Điều này gây ra sự bất lợi theo quan điểm phát triển bền vững, và một trong những giải pháp cho vấn đề này là sử dụng các phụ gia khoáng thay thế xi măng. Bài báo này trình bày những kết quả nghiên cứu ban đầu về việc sử dụng phối hợp silica fume và xỉ lò cao hạt hóa nghiền mịn có sẵn ở Việt Nam để chế tạo BTCLSC. Kết quả chỉ ra rằng việc sử dụng tổ hợp này đã cải thiện cả tính công tác và cường độ nén của BTCLSC. Thêm vào đó, tổng hàm lượng xi măng được thay thế bằng hỗn hợp này có thể đạt đến 55% (tính theo tổng khối lượng chất kết dính). Đây là một kết quả rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững của loại bê tông này trong thực tế.
Từ khóa: Bê tông chất lượng siêu cao, silica fume, xỉ lò cao hạt hóa.
Nhận ngày 20/2/2013, chỉnh sửa ngày 21/3/2013, chấp nhận đăng 30/3/2013
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO BÊ TÔNG CƯỜNG ĐỘ SIÊU CAO SỬ DỤNG PHỤ GIA KHOÁNG THAY THẾ MỘT PHẦN XI MĂNG Ở VIỆT NAM HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGTạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (TCKHCNXD) - ĐHXDHN - Tập 9 Số 2 - Trang 11-18 - 2015
Bê tông cường độ siêu cao (BTCĐSC) đã và đang được nghiên cứu và ứng dụng ở Việt Nam với các tính chất đặc biệt như độ chảy cao, cường độ rất cao, độ thấm nước thấp và độ bền cao. Tuy nhiên, trong BTCĐSC, lượng xi măng sử dụng rất lớn, khoảng 900-1000 kg/m3, điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tính chất, giá thành, và môi trường của sản phẩm. Do vậy, việc nghiên cứu sử dụng phụ gia khoáng thay thế một phần xi măng chế tạo BTCĐSC có ý nghĩa to lớn về mặt kỹ thuật, kinh tế và môi trường, góp phần vào mục tiêu phát triển xây dựng bền vững sản phẩm này. Bài báo này trình bày những kết quả nghiên cứu về việc sử dụng một số phụ gia khoáng sẵn có ở Việt Nam như silica fume, tro bay, tro xỉ, tro trấu, bột đá vôi, cũng như một số tổ hợp phụ gia này trong việc chế tạo BTCĐSC. Kết quả này góp phần quan trọng trong việc phát triển và ứng dụng loại bê tông này trong công nghiệp xây dựng bền vững ở Việt Nam.
Từ khóa: Bê tông cường độ siêu cao; phụ gia khoáng; phát triển bền vững.
Nghiên cứu sử dụng hạt vi cầu rỗng từ tro bay thay thế một phần cốt liệu nhỏ cho chế tạo bê tông nhẹ chịu lựcBài báo này trình bày kết quả nghiên cứu sử dụng các hạt vi cầu rỗng từ tro bay, còn gọi là hạt cenosphere(FAC) thay thế một phần hoặc hoàn toàn cốt cốt liệu nhỏ trong bê tông để chế tạo loại bê tông nhẹ chịu lực với khối lượng thể tích (KLTT) trong khoảng từ 1300 đến 1800 kg/m3, cường độ nén trên 40 MPa. Cát được sử dụng thay thế một phần cenospheres ở các tỷ lệ cát/FAC là 0, 20, 40, 60, 80 và 100 % theothểtích. Kết quả thí nghiệm cho thấy, khi thay thế cát bởi FAC, khối lượng thể tích của bê tông giảm tương ứng, từ 2180 kg/m3 của mẫu 100 % cát xuống còn 1312 kg/m3 khi thay thế hoàn toàn cốt liệu cát bằng FAC. Tuy nhiên, các tính chất cơ học cơ bản của bê tông sử dụng FAC như cường độ nén, cường độ uốn, mô đun đàn hồi bị giảm, độ hút nước tăng, mặc dù cường độ riêng (tỷ lệ cường độ nén so với KLTT) tăng đáng kể.
#Hạt vi cầu rỗng từ tro bay #Bê tông nhẹ #Bê tông nhẹ chịu lực #Cenospheres #Bê tông nhẹ cường độ cao #Cốt liệu nhẹ